Cần thiết sửa đổi Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ
Luật Quản
lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ được Quốc hội khóa XIV thông
qua năm 2017 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2018; qua 5 năm triển khai
thực hiện đã đạt được những kết quả rất tích cực trong công tác quản lý nhà
nước, đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ chiến đấu của lực lượng vũ trang và các lực lượng khác góp
phần bảo vệ tổ quốc, giữ gìn an
ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cũng phát
sinh các khó khăn, vướng mắc, bất cập cần thiết phải nghiên cứu, đề xuất sửa
đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Phát sinh khó khăn,
vướng mắc
Trong những năm qua, Bộ Công an đã chỉ đạo xây dựng và hoàn thành hệ
thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Căn cước công dân và hệ thống Định danh
và xác thực điện tử. Đồng thời để triển khai thực hiện Nghị quyết 68 của Chính
phủ về cắt giảm, đơn giản hóa các thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động
kinh doanh và Đề án 06 của Chính phủ về phát triển ứng dụng dữ liệu dân cư,
định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia thì cần thiết phải
nghiên cứu, sửa đổi 30 Điều về thủ tục cấp các loại Giấy phép về vũ khí, vật
liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ trong Luật này theo hướng cắt giảm
các loại giấy tờ có thể kết nối, chia sẻ để khai thác dữ liệu như: Bản sao
Chứng minh nhân dân, Căn cước công dân, Hộ chiếu, Giấy Chứng nhận đủ điều kiện
về ANTT...
Tình hình tội phạm sử dụng súng tự chế (súng
bắn đạn ghém, súng săn, súng nén ga, súng nén hơi…), vũ khí thô sơ, vũ khí tương tự
vũ khí thô sơ diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng, năm sau cao hơn năm
trước; trong 5 năm qua đã xảy ra gần 15.000
vụ (chiếm khoảng 76% trên tổng số vụ
việc vi phạm về vũ khí đã phát hiện, bắt giữ). Đối tượng sử dụng trái phép
các loại dao, kiếm, búa, rìu…để gây án cũng diễn ra rất phức tạp; trong 5 năm
các lực lượng chức năng đã bắt giữ, xử lý trên
5.400 vụ (chiếm khoảng 28% tổng số vụ
việc vi phạm về vũ khí) trong đó có nhiều vụ gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng, gây lo lắng trong nhân dân. Trong khi đó, việc xử lý hình sự đối với các
loại tội phạm này gặp rất nhiều khó khăn. Tại Điều 304 Bộ luật Hình sự chỉ quy
định chế tài xử lý đối với các hành vi chế tạo, tàng trữ, mua bán, vận chuyển,
sử dụng hoặc chiếm đoạt trái phép vũ khí quân dụng; Điều 306 chỉ xử lý hình sự
đối với người nào chế tạo, tàng trữ, mua bán, vận chuyển, sử dụng trái phép
hoặc chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao và vũ khí khác có tính
năng, tác dụng tương tự như súng săn, vũ khí thể thao khi đã bị xử phạt vi phạm
hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích
mà còn vi phạm. Chính vì vậy, các đối tượng đã lợi dụng kẽ hở của pháp luật để
chế tạo, tàng trữ, mua bán, vận chuyển, sử dụng trái phép các loại súng tự chế (súng bắn đạn ghém, súng săn, súng nén ga, súng
nén hơi…), vũ khí thô sơ (các loại dao, lưỡi lê, đao, kiếm, giáo,
mác, thương, mã tấu, côn, quả đấm, quả chùy, cung, nỏ) và linh kiện để lắp ráp vũ khí nếu không kịp
thời ngăn chặn, xử lý nghiêm đối với các đối tượng trên sẽ tiềm ẩn nguy cơ gây mất an ninh quốc gia, trật tự
an toàn xã hội.
Thực tế hiện nay, nhiều tổ chức, doanh nghiệp của các nước trên thế giới có
cho, tặng, viện trợ một số loại vũ khí, công cụ hỗ trợ cho Việt Nam để phục vụ
việc nghiên cứu, sản xuất hoặc trang bị cho các đối tượng theo quy định của
pháp luật. Tuy nhiên, tại Điều 5 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và
công cụ hỗ trợ quy định nghiêm cấm việc trao đổi, tặng, cho, gửi, mượn, cho
mượn, thuê, cho thuê, cầm cố vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ. Vì vậy, để
tận dụng nguồn lực từ nước ngoài hỗ trợ Việt Nam trong nghiên cứu, sản xuất,
trang bị, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ thì cần thiết phải nghiên cứu, sửa
đổi, bổ sung các quy định này cho phù hợp.
Ngoài ra còn
một số quy định về việc nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh, vận chuyển và sử dụng
vật liệu nổ công nghiệp còn chưa phù hợp với thực tiễn như: chưa có quy định về
việc đăng ký sản phẩm vật liệu nổ công nghiệp mới sản xuất, sử dụng tại Việt
Nam; việc quy định chủng loại sản phẩm, quy mô sản xuất phải phù hợp với định
hướng phát triển ngành vật liệu nổ công nghiệp chưa phù hợp với Luật Quy hoạch;
việc quy định tổ chức, doanh nghiệp sử dụng vật liệu nổ công nghiệp không hết
phải bán lại cho tổ chức, doanh nghiệp kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp; quy
định giấy phép vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp chỉ có giá trị cho 01 lượt
vận chuyển gây khó khăn cho các doanh nghiệp...
Vì vậy, cần thiết phải nghiên cứu xây dựng Luật Quản lý, sử dụng
vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (sửa đổi) nhằm đảm bảo phù hợp với thực
tiễn, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức và người dân; đồng thời,
quản lý chặt chẽ, xử lý nghiêm đối với các hành vi vi phạm, nhất là đối
với các loại súng tự chế, các loại dao có tính sát thương cao để mang tính răn
đe và đáp ứng yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm trong tình hình mới
Đề xuất 4 chính sách
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công an đã chỉ đạo nghiên cứu, tổng
kết đánh giá toàn diện thực tiễn 5 năm triển khai thi hành Luật Quản lý, sử
dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ; trên cơ sở những khó khăn, vướng
mắc và hạn chế, bất cập phát sinh từ thực tiễn; Bộ Công an dự kiến đề xuất 04
chính sách lớn trong Luật (sửa đổi) gồm:
(1)
Hoàn thiện quy định về khái niệm vũ khí, công cụ hỗ
trợ, linh kiện vũ khí, công cụ hỗ trợ; khái niệm và biện pháp quản lý dao có
tính sát thương cao.
(2) Cắt giảm, đơn giản hóa giấy tờ, hồ sơ quy định trong các thủ tục hành
chính về vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
(3) Cho phép tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài cho, tặng viện trợ vũ khí,
công cụ hỗ trợ cho Việt Nam.
(4) Sửa đổi bổ sung một số quy định về nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh, sử
dụng vật liệu nổ công nghiệp.
Những nội dung sửa đổi, bổ sung có ý nghĩa rất quan trọng nhằm khắc phục
kịp thời những khó khăn, vướng mắc, bất cập, nâng cao hiệu quả công tác quản
lý, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính và phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm
trong tình hình mới.
Nguồn: Bộ Công an